Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 6

  • Hôm nay 282

  • Tổng 7.059.762

NGÀNH TƯ PHÁP VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH (1945 - 2005)

Post date: 28/02/2017

Font size : A- A A+

 NGÀNH TƯ PHÁP VIỆT NAM

60 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

(1945 - 2005) 

 1. Tổ chức Ngành Tư pháp qua các giai đoạn lịch sử. 

1.1. Ngành Tư pháp trong giai đoạn 1945 - 1960.

Năm 1945, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Tuyên cáo thành lập Nội các Thống nhất Quốc gia gồm 12 Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp do Ông Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng. Theo Quyết định số 715/TTg ngày 7/11/1995 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 28 tháng 8 trở thành “Ngày Truyền thống của Ngành Tư pháp Việt Nam”.

Sau cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên tháng 01/1946, Nghị viện (Quốc hội) đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, Bộ trưởng Bộ Tư pháp là Ông Vũ Đình Hoè. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp được quy định tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945, theo đó, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ của cá nhân, về dân sự, thương sự, hình sự và thủ tục tố tụng, tổ chức và quản trị các toà án, việc truy tố tội phạm, tư pháp công an, thi hành các án phạt, quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân, quản lý các viên chức toà án, viên chức ngạch tư pháp, luật sư, đại tụng viên, thừa phát lại, hỗ giá viên, phụ trách công việc quốc tịch, thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp và uỷ thác tư pháp với nước ngoài.

Tại địa phương, theo Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền địa phương, trong giai đoạn 1945 - 1946, có 3 Sở Tư pháp được đặt tại Uỷ ban hành chính 3 kỳ: Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ. Khi bước vào cuộc kháng chiến, theo Thông lệnh số 12 NV-CT ngày 29/12/1946 về tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đặt ở mỗi khu hoặc liên khu một Sở  Tư pháp để trông coi việc tư pháp và giúp ý kiến cho Uỷ ban bảo vệ khu, liên khu (Uỷ ban hành chính kháng chiến khu, liên khu). ở cơ sở, Ban Tư pháp xã gồm ban thường vụ của Uỷ ban hành chính cấp xã kiêm cả việc tư pháp (có thẩm quyền hoà giải các vụ dân sự, thương sự, phạt vi cảnh...).

Trong suốt 15 năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngành Tư pháp đã đoàn kết, tập trung nỗ lực vào việc xây dựng nền tảng pháp luật của Nhà nước dân chủ nhân dân và xây dựng, tổ chức nền tư pháp nhân dân theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, đóng góp phần quan trọng vào thành công của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kỳ của dân tộc và đường lối xây dựng kinh tế trong những năm đầu lập lại hoà bình ở miền Bắc.

Năm 1958, theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá I, Toà án nhân dân tối cao và Viện Công tố Trung ương trực thuộc Chính phủ được thành lập, tách khỏi Bộ Tư pháp. Sau đó, trên cơ sở Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960, đã hình thành hệ thống Toà án nhân dân và hệ thống Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Chính phủ. Cũng từ năm 1960, theo Luật Tổ chức Chính phủ, trong thành phần Chính phủ không có Bộ Tư pháp. Các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về quản lý tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra (tư pháp công an), truy tố (viện công tố), xét xử (toà án), thi hành án được chuyển giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và một phần cho chính quyền địa phương. 

1.2. Tổ chức Tư pháp (Pháp chế) trong giai đoạn 1960 - 1981.

Vụ Pháp chế Thủ tướng Phủ (Văn phòng Chính phủ sau này) được thành lập theo Nghị định số 504-TTg ngày 26/10/1957 đảm nhận công tác giúp Chính phủ xây dựng pháp luật về kinh tế và hành chính. Vào năm 1960, Vụ trưởng là ông Phạm Khắc Hoè.

Năm 1972, trong Tờ trình số 911-TC ngày 12/9/1972 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã nhận định: “Chúng ta chưa phát huy được đầy đủ tác dụng tích cực của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong mọi mặt hoạt động của Nhà nước. Công tác pháp chế chưa được gắn chặt với toàn bộ việc quản lý nhà nước. Hệ thống tổ chức pháp chế chưa hình thành ...”. Để khắc phục tình hình đó, Hội đồng Chính phủ đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc thành lập Uỷ ban Pháp chế của Hội đồng Chính phủ. Uỷ ban Pháp chế là cơ quan chủ quản về mặt pháp chế của Hội đồng Chính phủ, được phân công phụ trách công tác pháp chế do Hội đồng Chính phủ đảm nhiệm trong việc quản lý nhà nước, đặc biệt trong việc quản lý kinh tế.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn thành lập Uỷ ban Pháp chế bằng Nghị quyết số 223-NQ/QH-K4 ngày 14/9/1972 do Chủ tịch Trường Chinh ký.

Uỷ ban Pháp chế được tổ chức và hoạt động theo Nghị định số 190/CP ngày 09/10/1972 của Hội đồng Chính phủ với chức năng quản lý thống nhất công tác pháp chế của Hội đồng Chính phủ. Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế là Ông Trần Công Tường (1972 - 1978), Ông Nguyễn Ngọc Minh (1978-1979) và Ông Trần Quang Huy (1979 - 1981). Trụ sở của Uỷ ban Pháp chế đặt tại số 5 Ông ích Khiêm – Hà Nội.

Hoạt động của Uỷ ban Pháp chế từ khi thành lập cho tới khi tái lập Bộ Tư pháp chủ yếu tập trung vào: Xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, xây dựng hệ thống tổ chức pháp chế ở các Bộ, Tổng cục, ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quản lý một số tổ chức bổ trợ tư pháp và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, trong các năm 1975 - 1976, Uỷ ban Pháp chế cùng với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn tất việc tiếp quản trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp thuộc chế độ nguỵ quyền và tiếp nhận bàn giao công việc của Bộ Tư pháp thuộc Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, thống nhất về mặt tổ chức, hoạt động của các cơ quan pháp chế, toà án, kiểm sát trên toàn quốc.

Tổ chức và hoạt động của cơ quan pháp chế ở các Bộ và Tổng cục, ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện theo hướng dẫn của Uỷ ban Pháp chế tại Thông tư số 100/VP ngày 10/5/1974. Hai chức năng chủ yếu của các cơ quan pháp chế là: Thứ nhất, quản lý thống nhất công tác xây dựng và ban hành pháp luật, hướng dẫn và theo dõi thi hành pháp luật, xây dựng cơ quan pháp chế cấp dưới, bồi dưỡng cán bộ pháp chế, quản lý hành chính tư pháp; Thứ hai, làm tư vấn pháp luật cho cơ quan lãnh đạo (Bộ, Tổng cục, ủy ban hành chính) về các vấn đề có liên quan đến pháp chế.

Ngay trong những năm đầu xây dựng ngành 1973 -1975, một số Bộ, Tổng cục đã thành lập Vụ Pháp chế, Ban Pháp chế hoạt động hiệu quả như Bộ Giao thông Vận tải, Tổng cục Bưu điện, Bộ Thuỷ lợi, Bộ Nội vụ (Công an), Bộ Quốc phòng, Ngoại giao, Ngoại thương, Nội thương...

Tính đến 4/1975, ở Trung ương đã có 35/42 cơ quan có tổ chức pháp chế, ở địa phương có 16/25 tỉnh có tổ chức pháp chế thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, việc thành lập Ban Pháp chế tỉnh được hưởng ứng ở hầu hết các tỉnh phía nam mà các địa phương mở đầu thành lập vào cuối năm 1975 là thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Đồng Tháp, Tiền Giang, Đồng Nai, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Hậu Giang.

Hệ thống pháp chế địa phương, sau năm 1976 đã lần lượt thành lập ở hầu hết các tỉnh, hoạt động tới năm 1981 thì chuyển sang hình thức Sở Tư pháp. 

1.3. Ngành Tư pháp từ khi tái thành lập đến nay (1981- 2005).

Ngày 17 tháng 3 năm 1981, trong phiên họp về công tác nội chính, Bộ chính trị đã cho ý kiến về việc thành lập Bộ Tư pháp làm nhiệm vụ của Uỷ ban Pháp chế của Chính phủ và một phần nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối cao – quản lý toà án địa phương về tổ chức để Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác xét xử, giám đốc việc xét xử và tổng kết, hướng dẫn thực tiến xét xử. Đảng bộ Bộ Tư pháp thuộc khối Nội chính Trung ương. Ban Nội chính Trung ương được giao cùng Thường vụ Hội đồng Chính phủ và những cơ quan liên quan chuẩn bị Đề án về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp trình Bộ Chính trị vào tháng 5 năm 1981 cùng với Luật tổ chức một số cơ quan Nhà nước theo Hiến pháp mới 19801.

Ngày 18 tháng 5 năm 1981, Uỷ ban Pháp chế của Chính phủ đã có Công văn số 163-VP trình Bộ Chính trị và Thường vụ Hội đồng Chính phủ bản Đề án tổ chức tư pháp. Ngày 18/9/1981, Đề án tổ chức Bộ Tư pháp kèm theo Tờ trình số 51-TCCB đã được Uỷ ban Pháp chế trình Hội đồng Bộ trưởng. Tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá VII, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập Bộ Tư pháp: “Thực tiễn trong hai mươi qua đã chứng minh rõ việc Hội đồng Bộ trưởng – cơ quan quản lý toàn diện công việc của Nhà nước mà không có Bộ Tư pháp là điều rất không hợp lý”. Hội đồng Bộ trưởng (và các Uỷ ban nhân dân địa phương) không nắm được tình hình thi hành pháp luật, không nắm được tình hình xét xử của các toà án, không gắn được việc xây dựng pháp luật với việc kiểm tra thi hành pháp luật và điều hành công việc chung... Bộ Tư pháp là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý công tác tư pháp trong cả nước.

Bộ Tư pháp được tái thành lập theo Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng với chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý thống nhất các việc về tư pháp trong cả nước, bao gồm xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các toà án nhân dân địa phương và quản lý nhà nước các công tác tư pháp khác (luật sư, công chứng, giám định, ...), đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật trong cả nước. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thời kỳ này là đồng chí Phan Hiền. Trụ sở của Bộ Tư pháp đặt tại số 5 Ông ích Khiêm (từ 1981-1987), sau đó chuyển về số 25A phố Cát Linh – Hà Nội (từ 1988 - 2002).

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương được quy định tại Thông tư số 463-TCCB ngày 21/6/1988 của Bộ Tư pháp. Hệ thống cơ quan tư pháp địa phương bao gồm: Sở Tư pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; Ban (sau đó chuyển thành Phòng) Tư pháp ở cấp quận, huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tương đương; Ban Tư pháp ở cấp xã, phường và các đơn vị hành chính tương đương.

Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức pháp chế bộ, ngành được quy định tại Nghị định số 178/HĐBT ngày 17/6/1985. ở các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước và một số cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có Vụ Pháp chế. ở các sở chuyên môn, liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, xí nghiệp có cố vấn pháp luật.

Năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới được Quốc hội thông qua. Năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp trong thời kỳ đổi mới, trong giai đoạn 1993 - 2002, Bộ Tư pháp được tiếp tục giao thêm nhiều trọng trách mới: quản lý công tác thi hành án dân sự; thẩm định các dự án luật, pháp lệnh, các dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ; đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán và các chức danh tư pháp khác; quản lý nhà nước công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách; công tác hoà giải; hoạt động bán đấu giá tài sản; hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm; hoạt động hành nghề tư vấn pháp luật của Tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam; tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Trọng tài kinh tế...

Trong giai đoạn này, cơ quan tư pháp địa phương được củng cố ở 3 cấp: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp ở cấp huyện, Ban Tư pháp ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương được quy định tại Thông tư số 12/TTLB ngày 26/7/1993. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức pháp chế bộ, ngành được quy định tại Nghị định số 94/CP ngày 06/9/1997.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn này là đồng chí Nguyễn Đình Lộc. Trụ sở của Bộ Tư pháp đặt tại số 25 A phố Cát Linh – Hà Nội (1993 - 2002) sau đó chuyển sang số 56-58-60 phố Trần Phú.

Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 khẳng định đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ - CP ngày 6/6/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp để phù hợp với vị trí của Bộ trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương được quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 5/5/2005. Theo đó, các cơ quan tư pháp địa phương gồm có Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện và Ban Tư pháp thuộc UBND cấp xã. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức pháp chế bộ, ngành được quy định tại Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004.

Cho đến nay, các cơ quan tư pháp đã được thành lập ở cả 4 cấp, từ Trung ương đến cấp xã với hơn 2 vạn cán bộ công chức, trong đó có gần 1 vạn cán bộ tư pháp- hộ tịch chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.

Từ tháng 8/2002, Bộ trưởng Bộ Tư pháp là đồng chí Uông Chu Lưu. Trụ sở Bộ Tư pháp đặt tại số 56-58-60 phố Trần Phú - Hà Nội. 

2. Những đóng góp cơ bản và thành tựu nổi bật của Ngành Tư pháp trong 60 năm qua. 

2.1. Về xây dựng pháp luật.

Với tư cách là thành viên của Chính phủ và là cơ quan tham mưu của Chính phủ về mặt pháp luật, Bộ Tư pháp đã đóng góp phần tích cực vào việc soạn thảo các bản Hiến pháp của Nhà nước ta qua từng thời kỳ cách mạng, từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nhà nước dân chủ nhân dân đến Hiến pháp 1992 của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong giai đoạn 1945 - 1960, đóng góp quan trọng nhất và cũng là trọng tâm công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp là góp phần tạo lập nền tảng pháp lý cho sự hình thành và củng cố chính quyền nhân dân, đặc biệt là tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Ngoài việc tham gia cùng các Bộ trình ban hành nhiều văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước, Bộ Tư pháp đã trực tiếp soạn thảo và trình Chủ tịch Chính phủ (sau là Chủ tịch nước) ban hành hơn 90 sắc lệnh, Thủ tướng Chính phủ ban hành gần 30 nghị định, chỉ thị thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, các quyền tự do cá nhân, về tổ chức và quản lý các toà án, các cơ quan tư pháp, các tổ chức bổ trợ tư pháp và các chức danh tư pháp. Đồng thời, Bộ Tư pháp ban hành hơn 100 nghị định, thông tư và cùng một số Bộ trong Chính phủ ban hành gần 90 văn bản liên bộ hướng dẫn thi hành các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tổ chức và hoạt động tư pháp. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp đã duy trì tổ chức và hoạt động của Hội đồng tu luật Trung ương và các Ban tu luật đặt tại các Toà thượng thẩm nhằm soạn thảo những bộ luật đầu tiên có tinh thần dân chủ và phù hợp với tình trạng xã hội mới. Các dự thảo bộ Dân sự pháp điển, bộ Dân sự tố tụng pháp điển tuy không được hoàn thành do điều kiện kháng chiến ác liệt nhưng những tinh thần cơ bản đã được thể hiện trong Sắc lệnh số 97 năm 1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, có thể coi là cơ sở cho những nguyên tắc của Bộ luật Dân sự 1995.

Từ năm 1957 đến năm 1960, hoà bình lập lại ở miền Bắc, Bộ Tư pháp tập trung vào việc giúp Chính phủ, Quốc hội xây dựng Hiến pháp mới (1959) và các đạo luật về tổ chức nhà nước, trong đó có các Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960; Luật Hôn nhân và gia đình 1959... Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Ngành Tư pháp (Pháp chế) đã giúp Nhà nước ban hành một số luật, pháp lệnh, nhiều văn bản pháp quy (nghị định, thông tư, điều lệ...) và gần 5 vạn văn bản hướng dẫn về quản lý nhà nước trong mọi lĩnh vực, bảo đảm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng cơ sở vật chất, kinh tế, - kỹ thuật ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu đấu tranh thống nhất nước nhà.

Sau ngày thống nhất đất nước, một vấn đề cấp bách đặt ra là Nhà nước phải có một hệ thống pháp luật thống nhất điều hành chung công việc của cả nước. Quốc hội giao cho Chính phủ công bố bản Danh mục pháp luật thống nhất chọn trong các văn bản pháp luật đang áp dụng tại Miền Bắc và trong các văn bản của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam có thể áp dụng chung cho cả hai miền.

Dựa trên tinh thần chỉ đạo đó, Uỷ ban Pháp chế đã chủ trì cùng các Bộ, Tổng cục khẩn trương làm việc trong 4 tháng để trình Chính phủ một danh mục pháp luật thống nhất áp dụng trong cả nước.

Nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 của Chính phủ công bố Danh mục gồm hơn 400 văn bản pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ban hành qua các thời kỳ trong 14 lĩnh vực (14 phần của danh mục) về những vấn đề thiết yếu nhất, cấp bách nhất và có thể thi hành được ngay, để đưa việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế vào nề nếp, làm cho tất cả mọi ngành hoạt động đều có những pháp luật cần thiết.

Đối với các văn bản do các Bộ ban hành, Hội đồng Chính phủ giao trách nhiệm cho các đồng chí Bộ trưởng tiếp tục xem xét, lựa chọn để trình Chính phủ công bố và hướng dẫn thi hành. Trước hết, các Bộ cần chú ý chọn các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật của Quốc hội và của Chính phủ nói trên. Tính đến 3/ 1979, sau 3 đợt rà soát, công bố, đã có khoảng 700 văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong toàn quốc.

Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trách nhiệm phổ biến và hướng dẫn thi hành pháp luật thống nhất cho cán bộ và nhân dân trong địa phương mình. Trong khi thi hành, nếu Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng mới giải phóng phát hiện có những điểm nào không thích hợp với địa phương mình mà cần xin sửa đổi, bổ sung hoặc muốn đề nghị hoãn cho thi hành một phần nào đó thì phải báo cáo lên Hội đồng Chính phủ quyết định. Trong khi chờ đợi, vẫn phải thi hành nghiêm chỉnh, không được tự ý làm trái pháp luật của Nhà nước. Các cơ quan giúp việc Hội đồng Chính phủ khi nhận được báo cáo và đề nghị của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải nhanh chóng nghiên cứu và đề nghị Chính phủ giải quyết kịp thời và trả lời cho chính quyền địa phương.

Việc thống nhất pháp luật là một sự kiện pháp lý có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa của nước Việt Nam thống nhất, trong đó có sự đóng góp chủ chốt, quan trọng của các cơ quan pháp chế từ trung ương đến địa phương, pháp chế bộ, ngành.

 Từ khi thành lập lại năm 1981 đến nay, Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo những bộ luật, luật lớn có tính nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam như Bộ luật Hình sự 1986,1999, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988, Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, 2000, Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1997, 2000. Đây là những mốc son đánh dấu những bước phát triển quan trọng về trình độ lập pháp của Nhà nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn thảo các bộ luật, luật khác. Đồng thời, theo chức năng được giao, Bộ Tư pháp tham gia cùng các Bộ, ngành soạn thảo hầu hết những đạo luật quan trọng trong công cuộc đổi mới, đặc biệt là việc hình thành khung pháp luật cho sự hình thành, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm 2005, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt từ sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Bộ Tư pháp đã tích cực, chủ động phối hợp cùng các ngành trong Khối Nội chính đẩy nhanh tiến độ xây dựng mới hoặc sửa đổi bổ sung trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh quan trọng về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp như Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Pháp lệnh về cơ quan điều tra 2004, Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004, Pháp lệnh Giám định tư pháp 2004... Các văn bản này đã kịp thời thể chế hoá quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong điều kiện hội nhập quốc tế, góp phần tạo sự đồng bộ giữa cải cách tư pháp với cải cách lập pháp, hành pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XI, Bộ Tư pháp đang khẩn trương, tích cực soạn thảo Bộ luật Thi hành án, Luật về Luật sư, Pháp lệnh về Công chứng, Luật Bồi thường Nhà nước... nhằm tiếp tục thực hiện sâu sắc hơn, đồng bộ hơn mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến 2020 mà Bộ Tư pháp đã tham gia tích cực trong quá trình soạn thảo.

Theo Nghị định số 38/CP, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ xem xét và cho ý kiến về mặt pháp luật và từ năm 1996, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhiệm vụ thẩm định đối với các dự án luật, pháp lệnh, các dự thảo văn bản của Chính phủ trước khi trình Chính phủ xem xét. Trung bình mỗi năm, Bộ Tư pháp thực hiện thẩm định hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động thẩm định của Bộ Tư pháp ngày càng góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của các đạo luật và tính thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật, đảm bảo giữ vững định hướng chính trị của công cuộc đổi mới đồng thời tiếp cận, hội nhập với những thành tựu của khoa học pháp lý thế giới. Theo sự phân công của Chính phủ, Bộ Tư pháp đang chủ trì Đề án đổi mới cơ bản quy trình và nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc Chương trình Cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001 - 2010.

Hướng dẫn, tổ chức rà soát, hệ thống hoá pháp luật luôn là một lĩnh vực công tác quan trọng của toàn Ngành Tư pháp. Bộ Tư pháp đã tham mưu để Chính phủ ban hành các Chỉ thị về công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật trong từng thời kỳ và được giao trách nhiệm là thường trực của Ban chỉ đạo thực hiện các chỉ thị đó, ví dụ Chỉ thị số 166/HĐBT tháng 6/1989, Chỉ thị số 51/TTg ngày 24/11/1997 và Quyết định số 355-TTg ngày 28/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về tổng rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật từ năm 1976 đến năm1996. Hàng trăm ngàn văn bản đã được pháp chế các bộ ngành, cơ quan tư pháp địa phương rà soát; hàng chục ngàn văn bản đã được đề nghị huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung, góp phần khắc phục, giảm bớt những mâu thuẫn, chồng chéo, lạc hậu trong hệ thống pháp luật. Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã và đang chủ trì hoặc tham gia phối hợp với các bộ, ngành tiến hành các đợt rà soát, đối chiếu các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và địa phương để phục vụ cho việc Việt Nam đàm phán, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, AFTA..., ký kết, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực pháp luật và tư pháp trong quá trình hội nhập quốc tế. Kết quả của đợt rà soát hơn 300 văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Trung ương ban hành là Bản chào pháp luật phục vụ các vòng đàm phán gia nhập WTO và các đề xuất bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2005 - 2006. Các tổ chức pháp chế, các Sở Tư pháp đã tham gia rất tích cực và hiệu quả vào công tác mới mẻ và khó khăn này, bước đầu tạo được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn trong toàn ngành về những thách thức, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của công tác xây dựng và thực hiện pháp luật trong tiến trình hội nhập quốc tế.

 Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ bắt đầu được triển khai từ năm 2004. Tuy là nhiệm vụ mới, nhưng toàn ngành đã có những tìm tòi, sáng tạo các phương thức, biện pháp tổ chức thực hiện với tinh thần tích cực, khẩn trương. Ngay trong năm đầu tiên, Bộ Tư pháp đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện Nghị định số 135 tại 28 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, 15 tỉnh, thành phố; tập huấn nghiệp vụ cho 1.484 cán bộ làm công tác kiểm tra văn bản trong toàn quốc; bước đầu kiện toàn về tổ chức, biên chế, tạo lập nguồn lực và cơ chế quản lý thống nhất trong toàn quốc. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Phòng Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Sở Tư pháp các tỉnh đều rất chủ động thực hiện kiểm tra văn bản theo kế hoạch được UBND phê duyệt, triển khai công tác này tới cấp huyện, cấp xã. Tính đến tháng 6/2005, toàn Ngành Tư pháp đã tiếp nhận 71.984 văn bản để kiểm tra và đã phát hiện được 4.940 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; trong đó có thông báo và kiến nghị xử lý hơn một nghìn văn bản sai trái, số còn lại đang được nghiên cứu, xử lý theo quy định. 

2.2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Việc tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật nhằm làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Nhà nước, trong đó, Ngành Tư pháp tham gia với trách nhiệm chính. Trong suốt 60 năm qua, nhất là từ sau ngày Bộ Tư pháp được thành lập lại, công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã được nhận thức ngày đầy đủ hơn về vai trò, vị trí, được nâng cao hơn về chất lượng, đa dạng, phong phú hơn về hình thức, góp phần quan trọng nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong công tác giáo dục tư tưởng, chính trị. Năm 2003, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã chủ trì soạn thảo, giúp Ban Cán sự Đảng Chính phủ trình Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 32 CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

Từ chỗ thực hiện việc tuyên truyền theo chiến dịch, thời điểm phục vụ việc triển khai những văn bản pháp luật cụ thể như tuyên truyền Hiến pháp mới, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Hình sự....., đến nay, với sự tham mưu của Ngành Tư pháp, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được thực hiện thường xuyên, có nề nếp theo những chương trình quốc gia dài hạn (Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật 1998 - 2002 và 2003 - 2007, Chương trình hành động quốc gia phổ biến giáo dục pháp luật  từ năm 2005 - 2010 của Chính phủ) làm cơ sở xây dựng và triển khai các kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật hàng năm của các ngành, địa phương. Từ năm 1998 đến nay, Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật từ Trung ương đến địa phương đã được thành lập và hoạt động khá hiệu quả, huy động được sức mạnh, nguồn lực chung của các ngành, các cấp trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật...

 Thực hiện phương châm hướng về cơ sở, trong thời gian qua công tác xây dựng, khai thác, quản lý tủ sách pháp luật xã phường thị trấn, hoà giải ở cơ sở đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hiện nay trên cả nước đã có trên 10.000 tủ sách pháp luật tại các xã, phường, thị trấn, trên 120.000 tổ hoà giải tại các thôn, bản, ấp, cụm dân cư được củng cố, kiện toàn.

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đang góp phần quan trọng nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của từng cán bộ, từng người dân. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật đang dần dần trở thành các chuẩn mực và định hướng giá trị mới, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; tình trạng khiếu nại tố cáo đã có những chuyển biến tích cực; đội ngũ cán bộ công chức đã có ý thức nắm vững pháp luật, năng lực vận dụng, thi hành pháp luật được nâng cao một bước rõ rệt. 

2.3. Quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức.

Chỉ 11 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 13/9/1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành đồng thời hai Sắc lệnh - một mặt, bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp của chế độ cũ (Sắc lệnh số 32) mặt khác, theo đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp, thiết lập các toà án quân sự – những toà án đầu tiên của chế độ mới (Sắc lệnh số 33C) có thẩm quyền xét xử tất cả những hành động làm phương hại đến nền độc lập của đất nước. Tiếp theo đó, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu, đề xuất Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán. Các toà án tư pháp đảm nhiệm cả việc công tố, ngạch thẩm phán bao gồm cả thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội. Các toà án được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, tiến bộ như thực hiện hai cấp xét xử (sơ cấp, đệ nhị cấp và toà thượng thẩm), toà án tư pháp độc lập với các cơ quan hành chính, các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý; xét xử có phụ thẩm nhân dân tham gia, bảo đảm quyền bào chữa của bị can. Khi cuộc kháng chíên bắt đầu chuyển hướng sang tổng phản công, Bộ Tư pháp đã trình Chủ tịch nước ký ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng tạo nên bước chuyển đổi quan trọng trong việc tăng cường tính chất nhân dân của nền tư pháp, dân chủ hoá tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án. Ngoài ra, theo yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn trong cuộc kháng chiến, Bộ Tư pháp cùng với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ trình Chủ tịch nước ký các sắc lệnh thành lập các toà án binh, toà án đặc biệt, toà án nhân dân vùng tạm bị địch chiếm, toà án nhân dân đặc biệt vùng phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất... Ngoài công tác tổ chức, Ngành Tư pháp luôn chăm lo việc tuyển chọn, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán, dự thẩm, công tố viên, tư pháp công an... Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp khu, liên khu đã chỉ đạo kịp thời và sát sao các toà án về đường lối truy tố, xét xử nhất là các vụ án phương hại đến an ninh chính trị, trật tự xã hội, đặc biệt là ở vùng tác chiến, các vụ tham ô, buôn lậu... Hoạt động xét xử nghiêm minh của các toà án đã tích cực góp phần củng cố chính quyền nhân dân, giữ vững đời sống yên lành ở hậu phương, tạo niềm tin trong chiến sĩ, cán bộ và nhân dân vào đường lối và thắng lợi của cuộc kháng chiến. Nhận xét về đội ngũ cán bộ tư pháp thời kỳ này, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè viết: “Nhiều anh em giác ngộ cao về khẩu hiệu Tư pháp kháng chiến, đã xông vào địch hậu, mở phiên toà lưu động ngay cạnh đồn bốt giặc để tuyên truyền giáo dục nhân dân và lôi kéo nguỵ binh trở về chính nghĩa; có người đã hy sinh tính mệnh, được anh em suy tôn là “chiến sĩ trên mặt trận Tư pháp”, góp phần xương máu với các mặt trận kinh tế, văn nghệ, giáo dục, y tế, v.v... của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện oai hùng của dân tộc”2.         

Năm 1981, ngay sau khi được tái thành lập, Bộ Tư pháp đã được Nhà nước giao nhận lại nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Trong suốt 20 năm qua, cùng với sự phát triển, đi lên của đất nước, các toà án nhân dân địa phương và các toà án quân khu và tương đương, toà án quân sự khu vực ngày càng được củng cố và phát triển về mọi mặt, đáp ứng được yêu cầu của xã hội, niềm tin của nhân dân trong việc xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và các việc khác theo quy định của pháp luật. Bằng các hoạt động của mình, có sự phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan, với các tổ chức chính trị, xã hội, các toà án nhân dân địa phương và các toà án quân sự cấp quân khu và khu vực đã có những đóng góp to lón trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định toà án nhân dân tối cao quản lý các toà án địa phương về mặt tổ chức. Thi hành Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2002, ngày 25/9/2002 tại Bộ Tư pháp lễ bàn giao công tác quản lý toà án nhân dân địa phương, toà án quân sự quân khu và tương đương, toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức từ Bộ Tư pháp sang Toà án nhân dân tối cao đã được tiến hành.

Tính đến thời điểm bàn giao, về tổ chức bộ máy, hệ thống toà án gồm có 61 toà án nhân dân cấp tỉnh, 629 toà án nhân dân cấp huyện, 09 toà án quân sự cấp quân khu và 17 toà án quân sự khu vực. Các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự cấp quân khu và khu vực đều đã được sắp xếp, thành lập đủ cơ cấu bộ máy và bố trí đủ các chức danh lãnh đạo và chuyên môn nghiệp vụ theo quy định pháp luật. Về số lượng đội ngũ cán bộ, các toà án nhân dân địa phương có 8.644 người/8807 biên chế (cấp tỉnh có 2824 người; cấp huyện có: 5820 người), trong đó có 3270 thẩm phán (cấp tỉnh có: 915 thẩm phán; cấp huyện có: 2355 thẩm phán); thẩm phán toà án quân sự cấp quân khu có 48 người, thẩm phán toà án quân sự khu vực có 64 người. Về chất lượng cán bộ, các toà án nhân dân địa phương có 70% cán bộ, công chức có trình độ đại học luật trở lên (cấp tỉnh: 73,5%; cấp huyện: 68%). Số thẩm phán toà án nhân dân địa phương có trình độ đại học luật trở lên là 85% (cấp tỉnh 86,8%; cấp huyện: 84,4%). Số thẩm phán còn lại đều có trình độ tương đương đại học luật: 100% thẩm phán toà án quân sự cấp quân khu và khu vực có trình độ đại học luật trở lên. Số lượng hội thẩm đương nhiệm của các toà án nhân dân địa phương là 11.409 người, hội thẩm quân nhân của các toà án quân sự cấp quân khu và khu vực là 518 người. Trong suốt 20 năm qua việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ thẩm phán và cán bộ toà án địa phương luôn được Bộ Tư pháp xác định là nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá trong công tác quản lý toà án địa phương về mặt tổ chức. Có thể khẳng định rằng, phần lớn cán bộ toà án địa phương có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ có bản lĩnh nghề nghiệp, lòng yêu nghề và sẵn sàng chấp nhận gian khổ khó khăn.

Về cơ sở vật chất, tính đến thời điểm bàn giao, hầu hết các toà án nhân dân địa phương đã được xây dựng trụ sở mới hoặc được sửa chữa nâng cấp một cách cơ bản. Các toà án nhân dân địa phương cũng đã từng bước được trang bị đầy đủ các phương tiện làm việc cần thiết và được cấp đủ kinh phí hoạt động.

Tại buổi lễ bàn giao đồng chí Uông Chu Lưu - Uỷ viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có bài phát biểu nêu rõ: “So sánh thời điểm hiện nay với năm 1981, về tổ chức bộ máy của các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự cấp quân khu và khu vực tăng 147 đơn vị, trong đó toà án nhân dân cấp tỉnh tăng 21 đơn vị, cấp huyện tăng 123 đơn vị, toà án quân sự cấp quân khu tăng 01 đơn vị, toà án quân sự khu vực tăng 02 đơn vị. Ngoài ra, tại các toà án nhân dân cấp tỉnh đều được thành lập thêm các toà kinh tế, toà lao động và toà hành chính bên cạnh các toà hình sự và toà dân sự. Về biên chế và số lượng thẩm phán toà án nhân dân địa phương tăng gấp 2 lần; tỷ lệ số thẩm phán toà án nhân dân địa phương có trình độ đại học luật theo yêu cầu tăng 2,5 lần so với thời điểm năm 1981. Về hoạt động chuyên môn, hàng năm các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự quân khu và khu vực đều hoàn thành các chỉ tiêu xét xử đề ra, giải quyết được gần 140.000 vụ án các loại. Số vụ án xét xử oan sai, tuy có xảy ra, nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các vụ án mà các toà án đã thụ lý và giải quyết. Việc xét xử các vụ án lớn, điển hình như các vụ án về ma tuý, tham nhũng được dư luận nhân dân đồng tình, ủng hộ. Nhiều toà án và cán bộ toà án địa phương có thành tích công tác xuất sắc đã được ghi nhận và được Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân địa phương khen thưởng”.

Sự phát triển cả về tổ chức bộ máy, biên chế, chất lượng đội ngũ cán bộ và năng lực xét xử của các toà án nhân dân địa phương như trên không chỉ thể hiện kết quả, thành tích và những nỗ lực cố gắng của Bộ Tư pháp trong việc xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, tuyển dụng, đào tạo, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ toà án nhân dân địa phương trong 20 năm qua, mà còn là sự minh chứng cho việc phối hợp làm việc một cách có hiệu quả của toà án nhân dân tối cao, sự giúp đỡ của các Bộ, Ban, Ngành ở Trung ương, các cấp uỷ và chính quyền địa phương và đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ trong công tác xây dựng và quản lý các toà án ở nước ta.

 

2.4. Về quản lý và thi hành án dân sự.

Giai đoạn 1945 -1950 việc tổ chức thi hành án dân sự do thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện. Sau khi Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng thì hoạt động thi hành án dân sự do thẩm phán cấp huyện đảm nhận dưới sự kiểm soát của biện lý. Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1981, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên của nước ta năm 1989 tiếp tục khẳng định việc thi hành án dân sự do các chấp hành viên thuộc toà án nhân dân tiến hành. Ngày 21/4/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 thay thế cho Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 với việc đổi mới cơ bản là tách công tác thi hành án dân sự ra khỏi hệ thống toà án nhân dân. Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự mới được thiết lập gồm có Phòng Thi hành án ở các tỉnh (trực thuộc Sở Tư pháp), Đội Thi hành án ở các huyện trực thuộc Phòng Tư pháp. Bộ Tư pháp được giao là cơ quan quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự.

Để triển khai Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã soạn thảo trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức cơ quan thi hành án, trình tự thủ tục thi hành án, về việc công nhận và thi hành tại Việt Nam các bản án của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Sau hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh và các văn bản liên quan đã phát huy hiệu lực, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án nhưng cũng đã bộc lộ những bất cập so với yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt là yêu cầu của cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08–NQ/TW của Bộ Chính trị. Năm 2004, Bộ Tư pháp đã giúp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho công tác thi hành án dân sự phù hợp với điều kiện mới như Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án, Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ quy định về thủ tục cưỡng chế và xử phạt hành chính trong thi hành án dân sự...

Hơn 10 năm (1993 - 2005), kể từ khi thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ nhất về việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ tòa án nhân dân sang các cơ quan thuộc Chính phủ, công tác thi hành án dân sự ngày càng được mở rộng cả về phạm vi, tính chất và nội dung hoạt động. Một trong những kết quả quan trọng đạt được của công tác thi hành án dân sự là đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các tầng lớp xã hội về thi hành án dân sự. Hoạt động thi hành án dân sự được Đảng và Nhà nước xác định là một trong các nhiệm vụ quan trọng và đã được các cấp ủy Đảng, cơ quan từ Trung ương đến địa phương quan tâm, tập trung chỉ đạo. Đặc biệt là từ sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về việc tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự và Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08/NQQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, thì công tác thi hành án dân sự đã có bước chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và hành động.

Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự đã có sự chuyển biến cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống cơ quan thi hành án từ năm 1993 đến nay đã được hình thành và củng cố từ Trung ương đến địa phương. Cả nước hiện có 64 cơ quan thi hành án cấp tỉnh, 09 cơ quan thi hành án cấp quân khu và 660 cơ quan thi hành án cấp huyện. Từ năm 2003 trở lại đây, các bản án dân sự có giá ngạch dưới 500.000đ đã được chuyển giao cho Ban Tư pháp xã trực tiếp thi hành, tạo ra sự chuyển biến mới trong công tác thi hành án. Đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự tính đến năm 2004 có 2.132 chấp hành viên, trong đó có 331 chấp hành viên cấp tỉnh, 1801 cấp huyện và 3.085 cán bộ thi hành án. Đội ngũ chấp hành hành viên đa số đều có trình độ chuyên môn, năng lực đáp ứng hoàn thành nhiệm vụ được giao (chỉ còn 5% cán bộ chưa đạt tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ). Số vụ phải thi hành án đã được các cơ quan thi hành án thi hành có tỷ lệ ngày càng cao, thu về cho nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Nếu như năm 1994 (năm đầu tiên nhận bàn giao công tác thi hành án dân sự) số vụ việc phải thi hành khoảng 162 nghìn vụ việc với số tiền phải thu trên 700 tỷ đồng, thì năm 2004, tổng số vụ việc phải thi hành là 511.929 vụ việc, tăng gấp 3 lần so với năm 1994; tổng số tiền phải thu trên 15.682 tỷ 214 triệu đồng, tăng gấp 20 lần so với năm 1994.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng cùng chính quyền các địa phương và các cơ quan hữu quan đã tổ chức tổng kết 10 năm công tác thi hành án dân sự. Qua hội nghị tổng kết đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, trên cơ sở đó ngành đã đề ra và triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản, có tính đột phá trong việc giải quyết án tồn đọng, khiếu nại tố cáo trong hoạt động thi hành án, đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động thi hành án.

 

2.5. Công tác quản lý hành chính - tư pháp và bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, đăng ký giao dịch bảo đảm.

Về quản lý luật sư và tư vấn pháp luật, nhận thức được tầm quan trọng của công tác luật sư, với chức năng của mình, ngay từ những ngày đầu thiết lập bộ máy tư pháp của chế độ mới, Bộ Tư pháp đã đệ trình Chính phủ ban hành các văn bản về chế định luật sư, chế định bào chữa viên nhân dân để đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Sau ngày hoà bình lập lại, Bộ Tư pháp đã kiện toàn một số bước quan trọng tổ chức và hoạt động của luật sư, tăng cường tổ chức bào chữa viên nhân dân, tổ chức bồi dưỡng kiến thức cho các bào chữa viên. Sau ngày thống nhất đất nước Bộ Tư pháp đã mở các lớp bồi dưỡng về pháp luật xã hội chủ nghĩa cho gần 300 luật sư đã học luật trước 1975 để họ có thể tham gia vào hoạt động nghề nghiệp trong điều kiện mới. Nhiều người trong số này có quan điểm pháp lý đúng đắn, đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 và 2001 do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo là cơ sở pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường các tổ chức luật sư với hai chức năng bào chữa và tư vấn pháp luật. Hiện nay, cả nước có gần 3.500 luật sư, 61 Đoàn luật sư trong cả nước đã hoàn thành việc chuyển đổi về tổ chức, từng bước đi vào hoạt động ổn định theo Pháp lệnh Luật sư mới. 60 bản Điều lệ của các Đoàn luật sư đã được Bộ phê duyệt.

Các công tác tư pháp khác như quản lý văn khế, quốc tịch, cảnh sát tư pháp, lý lịch tư pháp... đã được triển khai từ khi có Nghị định 37 ngày 30/11/1945. Tuy nhiên, phải đến sau khi thành lập lại Bộ Tư pháp (1981) các công tác tư pháp này mới thật sự có bước chuyển đáng kể, đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước.

Được chính thức thành lập từ năm 1991 (Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/01/1991 về công chứng nhà nước), cơ quan công chứng nhà nước đã hình thành hệ thống với đầy đủ ý nghĩa của nó. Tính đến tháng 6/2005, cả nước có 122 phòng công chứng, đội ngũ công chứng viên trong cả nước là 353 người, trong đó có 11 người có trình độ thạc sĩ trở lên, 341 người có trình độ cử nhân luật, 01 người có trình độ cao đẳng kiểm sát. Hàng năm, các phòng công chứng đã công chứng, chứng thực hàng trăm ngàn hợp đồng kinh tế, dân sự, hàng chục ngàn bản dịch, hàng triệu bản sao... đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong việc tham gia các giao dịch kinh tế, dân sự... góp phần hiệu quả vào sự phát triển kinh tế, xã hội và quản lý hành chính nhà nước.

Công tác hộ tịch được bàn giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp từ năm 1987, đến nay đã được 18 năm. Nghị định số 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch là cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác quản lý hộ tịch. Đến nay, công tác hộ tịch đang đi vào nề nếp và được triển khai đến tận cơ sở. Nhằm đáp ứng những đòi hỏi của công tác quản lý hộ tịch trong tình hình mới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thời gian gần đây Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các địa phương mở các chiến dịch lớn về đăng ký khai sinh cho trẻ em và đăng ký hôn nhân thực tế. Qua các chiến dịch này toàn ngành đã đăng ký cho gần 2 triệu trẻ em chưa được đăng ký khai sinh và 1 triệu trường hợp hôn nhân thực tế. Các vấn đề hộ tịch có liên quan đến người nước ngoài (đặc biệt là việc kết hôn có yếu tố nước ngoài) đã được Bộ tư pháp hướng dẫn kịp thời, đáp ứng được các yêu cầu của xã hội trong điều kiện mở cửa về kinh tế.

Công tác quốc tịch được chuyển giao từ Bộ Ngoại giao sang Bộ Tư pháp từ năm 1993. Từ năm 1993 đến nay Bộ Tư pháp đã xử lý hồ sơ và trình Chính phủ quyết định cho hơn 50.000 trường hợp thôi quốc tịch Việt Nam, 70 trường hợp người nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam. Năm 2004 và 2005 Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các địa phương giải quyết vấn đề quốc tịch và hộ tịch cho hơn 46.000 Việt kiều từ Campuchia trở về định cư tại Việt Nam, tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống.

Công tác lý lịch tư pháp được Bộ Tư pháp tiếp nhận và triển khai từ năm 1998. Hiện nay, bình quân mỗi năm các Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan công an xác minh và cấp hàng trăm ngàn phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của công dân.

Bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp là những lĩnh vực rộng, thường xuyên gắn với địa phương, cơ sở lại liên quan trực tiếp đến đời sống và quyền lợi của người dân. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hoàn cảnh lịch sử để lại nên các văn bản pháp luật về các lĩnh vực này vừa thiếu, vừa không phù hợp với tình hình thực tế. Do vậy, từ năm 1997, Bộ Tư pháp đã tập trung cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực này nhằm đơn giản hoá thủ tục, giảm bớt phiền hà cho người dân, nhiều văn bản trên các lĩnh vực công chứng, giám định, luật sư, tư vấn pháp luật, quốc tịch, hộ tịch... được Bộ Tư pháp soạn thảo ban hành. Từ năm 2002 toàn Ngành Tư pháp đẩy mạnh cải tiến thủ tục hành chính, công khai thủ tục hành cính và lệ phí trong hoạt động công chứng, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, cải tiến biểu mẫu, sổ sách hộ tịch, bộ mẫu văn bản công chứng...

Công tác trợ giúp pháp lý được Bộ Tư pháp chính thức triển khai từ năm 1997 (theo Quyết định số 734/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Hiện nay, hệ thống trợ giúp pháp lý từ Trung ương đến địa phương đã được xây dựng và từng bước được củng cố kiện toàn gồm có: Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, 64 Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc các Sở Tư pháp, 606 chi nhánh, tổ chức trợ giúp pháp lý thuộc các trung tâm đặt tại Phòng Tư pháp và hơn 100 điểm trợ giúp pháp lý cấp xã với 423 chuyên viên trợ giúp pháp lý và 6.464 người làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý (trong đó có 1.287 cộng tác viên cấp tỉnh, 1.623 cấp huyện, còn lại là cấp xã).Tính đến hết năm 2004, Cục Trợ giúp pháp lý và các Trung tâm trợ giúp pháp lý các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã trợ giúp 526.971 vụ việc cho 547.047 đối tượng trợ giúp pháp lý, trong đó, tư vấn: 487.036 vụ, đại diện, bào chữa: 26.486 vụ, kiến nghị: 5.094 vụ, hòa giải: 8.355 vụ.

Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm chính thức đi vào hoạt động từ năm cuổi năm 2001, đầu năm 2002 (Theo Quyết định số 104/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Năm 2003 và 2004 Bộ Tư pháp chú trọng xây dựng nhiều văn bản thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực này; củng cố hoạt động đăng ký ở các trung tâm và chi nhánh; chuẩn bị mở thêm Chi nhánh số 2 tại Đà Nẵng. Bộ Tư pháp chú trọng thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước theo thẩm quyền, công tác tập huấn, hướng dẫn, công tác tuyên truyền, phổ biến về đăng ký giao dịch bảo đảm được tăng cường bằng nhiều hình thức, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực đăng ký bảo đảm. Từ khi chính thức triển khai hoạt động đăng ký (đầu năm 2002) đến nay, các Trung tâm đăng ký thuộc Cục đăng ký giao dịch bảo đảm đã tiếp nhận và giải quyết gần 60.000 hồ sơ yêu cầu đăng ký và gần 400 văn bản cung cấp thông tin. 

2.6. Về công tác cán bộ, đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý.

Trong suốt 60 năm xây dựng và trưởng thành, Ngành Tư pháp luôn coi công tác cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành. Trong mỗi giai đoạn phát triển, Ngành Tư pháp luôn chú trọng đến chất lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các vấn đề về năng lực chuyên môn, đạo đức công vụ, tính chuyên nghiệp và hiện đại của đội ngũ cán bộ... Từ năm 1945, Trường Đại học Chính trị pháp lý của Nhà nước ta đã hoạt động nhằm đào tạo cán bộ cho Ngành Tư pháp. Năm 1948, Sở Tư pháp các Liên khu bắt đầu mở các khoá huấn luyện cho thẩm phán. Sau ngày hoà bình lập lại (1954), Trường Cán bộ tư pháp Trung ương đã mở các lớp bồi dưỡng pháp luật xã hội chủ nghĩa, do chuyên gia Liên Xô (cũ) sang giúp giảng dạy. Sau khi Uỷ ban Pháp chế được thành lập, cùng với việc xây dựng tổ chức pháp chế ở các bộ, ngành, địa phương, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật, pháp chế được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành. Năm 1972, Trường Pháp lý thuộc Uỷ ban Pháp chế đã mở nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ pháp lý và từ năm 1977, đào tạo cán bộ trung cấp pháp lý. Năm 1979, Trường Cao đẳng Pháp lý được thành lập, sau đó, tháng 11/1979, được sáp nhập với Khoa Pháp lý thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thành Trường Đại học Pháp lý trực thuộc Uỷ ban Pháp chế (nay là Trường Đại học Luật Hà Nội trực thuộc Bộ Tư pháp). Cố Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đến dự lễ khai mạc khoá học đầu tiên của nhà trường đã nhấn mạnh trách nhiệm của ngành phải xây dựng “Trường Đại học Pháp lý Hà Nội thành một trung tâm nghiên cứu khoa học pháp lý, trung tâm đào tạo cán bộ pháp lý và trung tâm truyền bá pháp lý...”. Từ năm 1979, Trường Đại học Pháp lý Hà Nội (nay là Trường đại học Luật Hà Nội) đã đào tạo cho đất nước 51.472 cán bộ pháp luật, trong đó có hơn 40 tiến sỹ luật học, 380 thạc sỹ luật học, 46.556 cử nhân luật,416 người tốt nghiệp hệ cao đẳng và 4.079 người tốt nghiệp hệ trung cấp.

Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Bộ Tư pháp đã khẩn trương xây dựng Đề án, được Chính phủ phê duyệt và ban hành Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg thành lập Học viện Tư pháp trên cơ sở Trường đào tạo các chức danh tư pháp được hình thành từ năm 1998. Tính đến nay, Học viện Tư pháp đã và đang đào tạo 7.548 học viên, trong đó nguồn thẩm phán là 2.018 học viên, luật sư tập sự và nguồn luật sư là 4.436 học viên, nguồn công chứng viên là 245 học viên, nguồn chấp hành viên là 496 học viên, nguồn kiểm sát viên là 260 học viên, thư ký toà án 99 học viên. Học viện cũng đã bồi dưỡng cho 7.309 lượt cán bộ có chức danh tư pháp, người làm công tác tư pháp và tham gia hoạt động bổ trợ tư pháp.

Hiện nay, đội ngũ cán bộ của Bộ Tư pháp (bao gồm cả Trường Đại học Luật, Học viện Tư pháp) đã có trên 800 công chức, viên chức đang trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác; nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý. Các cán bộ tư pháp làm công tác chuyên môn đều có trình độ cử nhân luật trở lên, cán bộ được đào tạo bậc thạc sĩ, tiến sĩ ngày càng tăng nhanh, tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá phù hợp với từng nghiệp vụ cụ thể (chuyên viên pháp lý, chấp hành viên, nghiên cứu viên, giải viên, luật sư, công chứng viên, hộ tịch viên...) từng bước được hoàn thiện ngay trong quá trình đào tạo. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của Ngành Tư pháp không ngừng được tăng cường và lớn mạnh về mọi mặt.

 Viện Khoa học pháp lý được thành lập, giúp Bộ trưởng quản lý và phát triển công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động quản lý, nghiệp vụ của ngành, phục vụ đắc lực cho quá trình thực hiện đổi mới hệ thông pháp luật và cải cách tư pháp ở Việt Nam. Các đề tài nghiên cứu khoa học đã triển khai thực hiện từ 1992 - 2005, gồm 164 đề tài: 5 đề tài cấp Nhà nước, 111 đề tài cấp Bộ, 48 đề tài cấp cơ sở. Các đề tài đã tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những luận cứ khoa học và thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phục vụ cho cải cách tư pháp và cải cách hành chính mà trọng tâm là đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực của đội ngũ các cơ quan tư pháp và tổ chức bổ trợ tư pháp; góp phần xây dựng cơ chế đưa pháp luật vào đời sống xã hội.

Công tác thông tin, tư liệu, thư viện cùng từng bước được kiện toàn, hàng vạn đầu sách đã được bổ sung vào thư viện để giúp cho việc nâng cao kiến thức của cán bộ trong bộ, ngành. Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đã được đưa vào ứng dụng, mang lại những hiệu quả thiết thực cho cán bộ tư pháp, doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống pháp luật. 

2.7. Các hoạt động đối ngoại, công tác pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế.

Hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp là một mặt hoạt động quan trọng của Ngành Tư pháp. Trong 60 năm qua, Ngành Tư pháp đã giúp Chính phủ mở rộng, phát triển và quản lý thống nhất các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp theo đúng các nguyên tắc và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ. Tính đến nay, Bộ Tư pháp đã mở rộng quan hệ và có quan hệ hợp tác với 50 quốc gia và 15 tổ chức quốc tế. Trong đó, đã ký kết 12 Dự án và 14 Hiệp định tương trợ tư pháp, 8 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với các nước.

Hoạt động hợp tác về pháp luật và tư pháp trong những năm qua đã góp phần tích cực vào thực hiện các đường lối và quan điểm chính trị của Đảng trên các vấn đề Nhà nước và Pháp luật, phục vụ thiết thực cho công việc tư pháp trong nước, xác lập vị trí và uy tín của tư pháp Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm công tác tư pháp “phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết thêm công bằng”; “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “ Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”. Sáu mươi năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, Ngành Tư pháp nước ta luôn ghi nhớ lời căn dặn của Bác đưa công tác tư pháp phát triển không ngừng, vượt qua khó khăn và thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành những nhiệm vụ được giao trong các giai đoạn cách mạng và có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và kiến thiết đất nước. Các thế hệ cán bộ tư pháp qua các thời kỳ đã nỗ lực phấn đấu cùng các đồng chí lãnh đạo ngành (Ông Vũ Trọng Khánh, Ông Vũ Đình Hoè, Ông Trần Công Tường, Ông Trần Quang Huy, Ông Nguyễn Ngọc Minh, Ông Phan Hiền, Ông Nguyễn Đình Lộc, Ông Uông Chu Lưu) nối tiếp nhau xây dựng, vun đắp đưa Ngành Tư pháp từng bước trưởng thành về mọi mặt. Cho đến nay, Ngành Tư pháp đã phát triển thành hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương với đội ngũ đông đảo về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đang ngày càng được nâng cao, với những đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vị thế và vai trò của Ngành Tư pháp đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày càng được khẳng định.

Những thành tựu trên đây là kết quả thể hiện công sức chung của các thế hệ cán bộ tư pháp từ trung ương đến cơ sở dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Tổng kết 60 năm xây dựng và trưởng thành của Ngành Tư pháp, có thể rút ra các bài học lớn sau:

Thứ nhất, sự trung thành của đội ngũ đông đảo các thế hệ cán bộ Ngành Tư pháp đối với Đảng, đối với chế độ, đối với nhân dân là nền tảng vững chắc để Ngành Tư pháp phát triển đúng hướng, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước. Qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, Ngành Tư pháp luôn luôn lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm mục tiêu cho mọi cố gắng của mình.

Thứ hai, bài học lớn rút ra từ những thành công trên là bài học dân chủ. Dân chủ trong nội bộ ngành, trong từng cơ quan, tổ chức của ngành. Dân chủ còn có nghĩa là người dân phải có điều kiện và cơ hội giám sát tổ chức và hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức tư pháp.

Thứ ba, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng căn dặn cán bộ tư pháp “nội bộ đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, làm gương cho nhân dân. Đoàn kết tức là lực lượng của chúug ta. Lúc mới kháng chiến lực lượng ta yếu hơn địch, nhưng ta thắng lợi vì ta đoàn kết. Cho nên, Ngành Tư pháp muốn khắc phục khó khăn phải đoàn kết nhất trí thật sự, muốn đoàn kết thật sự phải dựa trên cơ sở lập trường vững vàng, tư tưởng sáng suốt, nội bộ dân chủ, phải giúp đỡ nhau học tập tiến bộ, thật thà phê bình tự phê bình”. Do vậy, bài học đoàn kết nội bộ luôn nhắc nhở các thế hệ cán bộ tư pháp ra sức phấn đấu, vun đắp xây dựng Ngành Tư pháp ngày càng lớn mạnh.

Mặt khác, công tác tư pháp của chúng ta chỉ có thể đạt được thành công nếu chúng ta biết phát huy sức mạnh tập thể, đoàn kết trong ngành và biết phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội khác. Chúng ta sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu chúng ta không có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trong việc triển khai công tác của ngành. Hiệu quả công việc của chúng ta tuỳ thuộc một phần không nhỏ vào nghệ thuật tổ chức thực hiện sự phối hợp đó.

Thứ tư, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và tính chuyên nghiệp hoá của đội ngũ cán bộ tư pháp luôn là chìa khoá của sự thành công trong hoạt động của Ngành Tư pháp trên mọi lĩnh vực. Không ngừng ra sức học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các thế hệ cán bộ tư pháp đã giúp Ngành Tư pháp vượt qua các khó khăn thử thách, phát triển đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ của Ngành trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phục vụ đắc lực cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.

Nhìn lại chặng đường đã qua, tuy còn nhiều khó khăn, nhưng trong xu thế phát triển chung của đất nước, Ngành Tư pháp cũng đã có nhiều bước tiến đáng kể, ngày càng trưởng thành. Các mặt hoạt động tư pháp đã từng bước được đổi mới với phương pháp, bước đi thích hợp và được đẩy mạnh phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, đặc biệt trên các lĩnh vực công tác trọng tâm, bảo đảm thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị của ngành, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Với những cống hiến và đóng góp nêu trên, ngày 29/11/1995, Ngành Tư pháp đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

Nguồn Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn)