Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 9

  • Hôm nay 3469

  • Tổng 7.106.535

Một số điểm mới của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 so với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009

Post date: 15/06/2018

Font size : A- A A+
Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017. Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018 và thay thế Luật TNBTCNN năm 2009. Việc ban hành Luật TNBTCNN năm 2017 có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi đây là một bước hoàn thiện về mặt thể chế điều chỉnh trách nhiệm bồi thường của nhà nước, tiếp tục cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, đồng thời, thể hiện rõ tránh nhiệm của Nhà nước đối với việc củng cố, hoàn thiện hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, nền công vụ cũng như trách nhiệm của Nhà nước trước công dân.

So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 có những điểm mới, cụ thể:
Thứ nhất, về giải thích từ ngữ, so với Điều 3 Luật năm 2009 thì Điều 3 Luật TNBTCNN năm 2017 giải thích 08 thuật ngữ, trong đó: (1) Sửa đổi tên và nội dung của 03 thuật ngữ: “hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ”, “văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường” và “cơ quan giải quyết bồi thường”; (2) Sửa đổi nội dung 01 thuật ngữ “người thi hành công vụ” – cho rõ ràng hơn; Bổ sung mới 04 thuật ngữ: “người bị thiệt hại”, “người yêu cầu bồi thường”, “người giải quyết bồi thường” và “hoàn trả”.
Thứ hai, so với Luật TNBTCNN năm 2009 thì Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 điều mới (Điều 4) quy định về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước. Theo đó, việc giải quyết yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại. Luật đã mở rộng nguyên tắc giải quyết bồi thường, cho phép người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra tòa án khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự; kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Người bị thiệt hại có quyền lựa chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp nhưng khi cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý yêu cầu bồi thường thì người đó không được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết bồi thường.
Thứ ba, Mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường Nhà nước, theo đó so với Luật TNBTCNN năm 2009 thì Luật TNBTCNN năm 2017 đã mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự để đảm bảo đồng bộ, thống nhất với quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật tiếp cận thông tin. Cụ thể:
-Trong lĩnh vực  quản lý hành chính (Điều 17): Bổ sung 02 trường hợp được bồi thường do bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính trái pháp luật là buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm và buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; đối với trường hợp được bồi thường do bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, bổ sung 01 biện pháp: giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Các biện pháp mới bổ sung là nhằm bảo đảm phù hợp với quy định của Điều 28 và Điều 89 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, đồng thời tăng cường tính minh bạch, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Ngoài ra, tại Điều này cũng bổ sung một số trường hợp được bồi thường khác để đảm bảo phù hợp với Luật Tố cáo, Luật Khiếu nại, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, như: bổ sung trường hợp được bồi thường “Không áp dụng hoặc áp dụng không đúng quy định của Luật Tố cáo các biện pháp bảo vệ người tố cáo khi người đó yêu cầu”; do “Thực hiện hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin về cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà không đính chính và không cung cấp lại thông tin”; đối với lĩnh vực thuế, bổ sung trường hợp được bồi thường do “hoàn thuế” trái pháp luật; do ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức từ tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
 - Trong lĩnh vực tố tụng hình sự (Điều 18): So với quy định tại Điều 26 Luật TNBTCNN năm 2009 thì Điều 18 Luật TNBTCNN năm 2017 Bổ sung trường hợp được bồi thường do người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; do pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án oan. Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo phù hợp với quy định của Khoản 1, Điều 31 Bộ Luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính (Điều 19): Luật bỏ lỗi cố ý đối với trường hợp ra bản án, quyết định trái pháp luật và tách thành 02 khoản riêng biệt, quy định cụ thể hơn căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người đã ra bản án, quyết định.
Trong hoạt động thi hành án hình sự (Điều 20): Kế thừa quy định của Luật TNBTNN năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời Luật TNBTNN năm 2017 bổ sung thêm 01 trường hợp được bồi thường là: Không thực hiện quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện của Tòa án đối với người bị kết án phạt tù.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự (Điều 21): Luật TNBTCNN năm 2017 đã bỏ lỗi cố ý đối với trường hợp “không  ra các quyết định về thi hành án” và trường hợp “không tổ chức thi hành án các quyết định về thi hành án”.
Thứ tư,Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định cụ thể hơn văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, theo đó quy định thống nhất thuật ngữ “văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường”, đồng thời quy định cụ thể từng loại văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự.
Thứ năm,về thiệt hại bồi thường, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung nhiều loại thiệt hại được bồi thường, trong đó đáng chú ý là bổ sung các thiệt hại được bồi thường phát sinh trong thực tế chưa được Luật TNBTCNN năm 2009 quy định như: thiệt hại được bồi thường là khoản tiền phạt theo thỏa thuận trong giao dịch dân sự, kinh tế do không thực hiện được các giao dịch dân sự, kinh tế; căn cứ tính mức lãi suất; quy định cụ thể và lượng hóa một số thiệt hại được bồi thường như thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 24), thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết (Điều 25) và thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 26). Việc quy định lượng hóa một số loại thiệt hại được bồi thường là để tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại cũng như cơ quan giải quyết bồi thường trong những trường hợp thiệt hại rõ ràng đã xảy ra nhưng người bị thiệt hại lại không thể đưa ra những giấy tờ, tài liệu để chứng minh cho thiệt hại của mình.
Đối với thiệt hại về tinh thần, Luật TNBTCNN năm 2017 sửa đổi, bổ sung toàn diện quy định thiệt hại về tinh thần (Điều 27): trong trường hợp áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và trường hợp công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật. Tăng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần đối với các trường hợp bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; trường hợp thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.
Thứ sáu, Về cơ quan giải quyết bồi thường, so với Luật TNBTCNN năm 2009, cơ quan giải quyết bồi thường được Luật TNBTCNN năm 2017 quy định tập trung tại Chương III (từ Điều 33 đến Điều 40). Theo đó, Luật quy định cụ thể hơn về cơ quan giải quyết bồi thường trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự đồng thời xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong một số trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, Luật TNBTCNN năm 2017 còn bổ sung cơ quan giải quyết bồi thường là Tòa án trong trường hợp kết hợp giải quyết bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Riêng đối với quy định về cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp Viện Kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung (trong trường hợp vụ án chưa đến giai đoạn Viện Kiểm sát hoàn thành cáo trạng để truy tố) mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì Điều 34 và Điều 35 Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định để phân rõ trường hợp nào thì thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trường hợp nào thì thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát.
Thứ bảy, về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường, Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại như thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường được rút ngắn từ 95 ngày – 125 ngày xuống còn từ 41 ngày – 71 ngày…; sửa đổi, bổ sung thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự (từ Điều 52 đến Điều 54); sửa đổi, bổ sung toàn diện thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính (Điều 55).
Đáng chú ý, so với  Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung cụ thể việc quy định về hình thức phục hồi danh dự (Điều 56), theo đó quy định rõ các hình thức phục hồi danh dự tương ứng với từng đối tượng được bồi thường. Ngoài ra Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung thêm 3 điều mới quy định về chủ động phục hồi danh dự (Điều 57); trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai (Điều 58); đăng báo xin lỗi và cải chính công khai (Điều 59).
Thư tám, về trách nhiệm hoàn trả, Luật TNBTCNN năm 2009 quy định trong tố tụng hình sự, nếu người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm hoàn trả thì Luật TNBTCNN năm 2017 quy định người thi hành công vụ nếu có lỗi gây thiệt hại thì phải có nghĩa vụ hoàn trả. Luật năm 2017 còn tăng mức hoàn trả với tỷ lệ tương ứng mức độ lỗi và số tiền mà Nhà nước đã bồi thường, theo đó: Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng lương của người đó; người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả từ 03 đến 05 tháng lương của người đó.
Thứ chín, Về trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, tại Điều 73, Luật TNBTCNN năm 2017 quy định Chính phủ là cơ quan được Luật giao trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án trên phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước và có nhiệm vụ quyền hạn theo quy định tại Khoản 2, Điều 73.
Về trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước ở địa phương,theo đó Luật giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án tại địa phương. Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước tại địa phương.
Ngoài ra, Luật TNBTCNN năm 2017 còn bổ sung một số quy định về các văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác bồi thường nhà nước; trách nhiệm lập dự toán, quyết toán và thủ tục chi trả.
Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018. Các trường hợp yêu cầu bồi thường đã được cơ quan giải quyết bồi thường thụ lý trước thời điểm Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết thì tiếp tục áp dụng quy định của Luật năm 2009 để giải quyết. Kể từ ngày Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành, các trường hợp được bồi thường theo quy định của Luật năm 2009 mà còn thời hiệu theo quy định của Luật năm 2009 nhưng chưa yêu cầu Nhà nước bồi thường hoặc đã yêu cầu nhưng chưa được thụ lý giải quyết thì áp dụng quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 để giải quyết.
Minh Tâm

More